Theo bài viết của Đỗ Thủy Tiên đăng trên báo “Việt Nam Đầu Tư Nước Ngoài” năm 1996
Đó là nhận định chung của hầu hết các nhà nghiên cứu trong giới âm nhạc đối với nghệ sĩ Tạ Thâm, người có công lớn trong việc cải tiến nâng cấp các loại nhạc khí dân tộc. Để đạt tới đỉnh cao nghệ thuật, bản thân ông từng trải qua bao biến cố thăng trầm mà ít người biết đến.
Kẻ ham mê rồ dại và tội nghiệp
Sinh năm 1929 trong một gia đình tương đối khá giả ở Thụy Anh, Thái Bình, năm 18 tuổi anh tham gia quân đội. Lúc 23 tuổi, vào học trường trung cấp âm nhạc. Ý định cải tiến nhạc cụ dân tộc đã “bén rễ” trong anh từ đó. Khi bạn bè cùng lớp được chọn những loại nhạc khí nước ngoài to, đẹp, đường bệ thì anh thanh niên Tạ Thâm với cây nhị ọp ẹp nhỏ kéo đi kéo lại những nốt nhạc đơn điệu, buồn tẻ trong bài “cò lả”, hết “bay từ ruộng cạn lại … bay ra cánh đông!”
Tốt nghiệp ra trường, anh về Đoàn Văn công thanh niên xung phong. Sau 2 năm, anh được cử đi học khóa sáng tác âm nhạc 4 năm. Ý tưởng cải tiến càng rõ nét hơn, khi anh tốt nghiệp và chuyển về Đoàn Nghệ thuật Tây Bắc, được sang thăm, và biểu diễn tại Trung Quốc năm 1964 và tận mắt chứng kiến các loại đàn dân tộc đã được bạn cải tiến về hình thức, mẫu mã, tận tai nghe các âm thanh được chuẩn định lại, nhờ tăng âm lượng, mở rộng âm vực…
Anh đã từng lang thang khắp bản gần, bản xa, từ Mường Lay, Lai Châu (dân tộc Thái) quê hương của đàn Tính Tẩu tới Pá Luông, Pú Nhung (dân tộc H’Mông) quê hương của Pí trăm Lay, Cỏ lang Dang, sáo, kèn môi, kèn lá. Trôi trong lời ca câu ví, đắm trong tiếng khèn dập dìu, lửng lơ, đằm thắm, nuột nà của bao đôi trai gái yêu nhau, anh đã săn lung, tìm hiểu, mô tả, vẽ, ký âm, chụp ảnh, đồng thời lần mò theo già bản về tận nhà sàn học cách sử dụng, chế tác các loại đàn.
40 năm trời mày mò cải tiến, từ một chàng trai độc thân hào hoa phong nhã, nay thành ông già má hóp, rụng răng, biết bao nỗi khổ ông từng chịu đựng, bao thất bại chua cay ông từng nếm trải, bao sự đố kỵ hiềm khích ông từng vượt qua. Ba lần khánh kiệt gia tài, tiêu tan sự nghiệp vì niềm đam mê rồ dại và tội nghiệp, ông vẫn không nản lòng. Từ địa vị của giảng viên kiêm trưởng khoa âm nhạc trường Nghệ thuật Tây Bắc, ông trở thành “trưởng khoa” chăn nuôi, trồng trọt, đánh cá…
Từ chỗ gà vàng sân, lợn đầy chuồng, lúa ngô đày ắp các lán dự trữ, đến lúc cả nhà phải đắp chiếu nằm đất, ăn đói, mặc rét để dành dụm tiền của vào việc cải tiến các loại đàn.
Một mình âm thầm lặng lẽ, từ Tăng Bẳng, Tăng Bu, kèn loa, thập lục 2 tầng âm, tam thập lục, đến hệ thống bán âm, các loại Hồ trung, Hồ đại, Tính Tẩu… đến đề tài thứ 17 thì ông nhận ra mình đã thất bại thảm hại. Cả một đống đủ các loại đàn bóng bẩy tuyệt đẹp nhưng câm tịt, nhẵn thín. Ý đồ “vật chất hóa” những tư tưởng đã nêu trong tập đề án cải tiến không thực hiện nổi.
Một mình anh không thể nào thay thế được công việc của cả một đống người, với mức chi phí hàng triệu đồng để mở xưởng thí nghiệm, mời các nhạc sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc, nhà vật lý âm thanh cùng hàng trăm thợ mộc, thợ xẻ, thợ lành nghề tham gia trong hàng chục năm trời như vậy. Ông quyết định phải lần mò lại từ đầu, cải tiến dứt điểm từng loại một.
Người làm sống lại cây đàn tính
Đi sâu tìm hiểu, ông phát hiện ra rằng, trên khắp các bản làng người Thái, nơi nào cũng có vài chục cây Tính Tẩu. Chất liệu cấu tạo hết sức đơn giản, chỉ cần một nửa quả bầu khô làm hộp cộng hưởng, một cần đàn dài cỡ 9 nắm tay bằng loại gỗ chân vịt (nhẹ, thẳng thớ) cùng sự khéo léo là thành cây đàn.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào độ dày mỏng của vỏ bầu khi ngắt, sự nạo ruột nông sâu khi phơi và độ dài ngắn của nắm tay người làm đàn mà mỗi cây Tính Tẩu có một âm sắc riêng. Mỗi người chỉ có thể sử dụng được đàn của chính mình nếu không muốn phải tập lại từ đầu trên một cây đàn tính khác.
Để sản xuất đại trà, sau khi cải tiến thì phải thay vỏ bầu bằng vỏ gỗ, đồng thời tăng âm lượng, phát triển âm vực lên 2 bậc cao và trầm. Ban ngày đẽo cưa, khuân các “cục gỗ”, Tạ Thâm về Hà Nội để thuê thợ lành nghề tiện, gọt, nạo bên trong sao cho các “quả bầu bằng gỗ” này có độ mỏng bằng đúng quả bầu cũ, lại không thể vỡ, hóp, méo mó, sứt sẹo.
Ngày đem biểu diễn, Đoàn Nghệ thật Tây Bắc đã thực sự thu hút được sự chú ý của khán giả, làm xôn xao giới âm nhạc trong cả nước. Tiếng lành đồn xa, Chủ tịch UBND tỉnh Lò Văn Hạc quyết định cấp cho người nghệ sĩ nghèo 15 ngàn đồng.
Ủy viên thư ký Lương Sơn thắc mắc:
- Chủ tịch lầm hay sao mà cho ông nhạc sĩ này nhiều tiền thế?
- Anh Thâm đã có công làm sống lại cây đàn Tính cho dân tộc ta. Người Thái chúng ta lẽ ra phải thay nhau nuôi anh ấy suốt đời thì tôi chỉ giúp anh ấy chút tiền hoàn thiện thêm các loại đàn. Có gì mà nhiều.
Tài năng và những người hâm mộ
Thắng lợi bước đầu củng cố thêm nghị lực, niềm tin trong ông. Liên tiếp từ 1973 đến 1987, ông lao vào cải tiến 43 loại đàn dân tộc có giá trị khác như đàn Bông sen, Tam thập lục, các loại khèn, đàn, cồng, bộ gõ…
Năm 1987 trong hội nghị “những công trình cải tiến đàn dân tộc” do Viện nghiên cứu Âm nhạc tổ chức, ông đạt 5 giải liền trong số 10 giải thưởng của Bộ Văn hóa. Đàn cánh dơi của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn và bổ sung tuyệt vời giữa đàn Tam thập lục của miền xuôi và cây Tính Cọn của Tây Bắc…
Một dàn cồng Mường trước đây tối thiểu phải 10 người chơi, ông cải tiến bằng cách thay cồng gỗ bằng cồng dây, thu cả dàn vào không gian đường kính 40 cm để chỉ cần 1 người đảm nhiệm.
Dàn chiêng đồ sộ của Hòa Bình, Tây Nguyên cũng được ông thu gọn thành bộ chiêng dây, nhỉnh hơn bàn tay mà khi diễn tấu vẫn đủ âm sắc của chiêng trầm, trung , cao…
40 trong số 44 nhạc cụ cải tiến đã được trình diễn trong cả nước gây tiếng vang không nhỏ. Hiện tại, ông tiếp tục cải tiến nâng cấp 10 loại đàn còn lại trong tổng số 54 loại đàn dân tộc mà ông hằng ấp ủ.