Sự du nhập của đàn tỳ bà tới Trung Quốc đã ảnh hưởng đến cả âm nhạc và văn học nước này. Đặc biệt vào thời nhà Tùy và nhà Đường, đây là nhạc cụ rất quan trọng trong cung đình cũng như chốn dân gian. Rất nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng mô tả đàn tỳ bà trong các tác phẩm văn học của mình như Truyện thơ tỳ bà (Fu Xuan thời nhà Tần), Lời ca đàn tỳ bà (Bai Juyi thời nhà Đường), Bài ca đàn tỳ bà (Yuan Shen thời nhà Đường), nhờ đó tạo nên đặc điểm văn hóa độc đáo của nhạc cụ này.
Từ thời kỳ Nam Bắc (thế kỷ thứ 5), trải qua nhà Tùy và nhà Đường (thế kỷ VII và VIII), rất nhiều nhạc sĩ không thuộc dân tộc Hán như Cao Poluomen, Cao Sengnu và Cao Miaoda thuộc gia đình họ Cao, nhạc sĩ An Maji, An Weiro thuộc gia đình họ An, nhạc sĩ Bai Zhitong và Bai Mingda thuộc gia đình họ Bai, và Su Zhipo từ phía Đông đến Trung Quốc đặc biệt là tỉnh Qinci. Hầu hết trong số họ đều là những nghệ sĩ đàn tỳ bà điêu luyện. Họ đóng vai trò quan trọng trong âm nhạc cung đình Trung Quốc đặc biệt vào thời nhà Tùy và nhà Đường.
Sau thời kỳ nhà Đường và nhà Tống, đàn tỳ bà với tư cách là nhạc cụ chính đã phát triển theo cách độc đáo riêng của nó. Trước đây, nó là nhạc cụ đệm, đến thời nhà Đường đã phát triển thành nhạc cụ độc tấu. Trong các sách Trung Quốc như Lịch sử nhà Đường và Lịch sử đại cương, chúng ta có thể thấy những nghệ sĩ đàn tỳ bà không dùng miếng gảy mà biểu diễn đàn bằng ngón tay còn được gọi là “chou pipa”. Trong cuốn sách Ghi chép Jiao Fang của Cui Lingqin, các nghệ sĩ nhạc cụ dây được gọi là “Chou players”. Điều này cũng được khẳng định qua tác phẩm thơ Lời ca đàn tỳ bà của Bai juyi. Sau thời nhà Tống và nhà Nguyên, đàn tỳ bà có bước phát triển đột phá với những tác phẩm đàn tỳ bà độc tấu miêu tả lịch sử trong âm nhạc có tiêu đề. Trong số đó, bản nhạc Chim ưng bắt thiên nga là một trong những tác phẩm đàn tỳ bà thông dụng thời nhà Nguyên và nhà Minh. Yang Yongfu viết trong Truyện thơ Luanjing như sau:
Âm nhạc tỳ bà có hơi ấm nhờ tình yêu
Trăng lên và chúng ta ngừng uống rượu
Âm nhạc tại các nước phía Tây được biểu diễn theo thể mới
Mô tả chim nga lẩn trốn chim ưng
Theo như chú thích gốc, Chim ưng vắt thiên nga là đoạn nhạc viết theo thể mới. Haiqin là một loại chim ưng chuyên đuổi bắt thiên nga ở vùng phía Bắc Trung Quốc. Tác phẩm tỳ bà Chim ưng bắt thiên nga kể lại câu chuyện chim ưng đuổi bắt thiên nga. Tác phẩm gồm 18 đoạn chia làm ba phần, tả cảnh chim ưng tìm mồi từ trên cao, phát hiện ra chim thiên nga, đuổi đánh quyết liệt và thành công. Thể loại tác phẩm độc tấu như thế đặc biệt phát triển vào thời nhà Minh và nhà Thanh. Bộ sưu tập tỳ bà của Hua Qiuping với tên gọi là Ký am đàn tỳ bà (1818) gồm 6 tác phẩm nhạc tỳ bà, trong đó Mai phục mọi hướng và Chúa tể bỏ áo giáp là những tác phẩm kinh điển.
Cùng với sự phát triển về âm nhạc tỳ bà, hình dạng đàn tỳ bà và phương thức biểu diễn cũng biến đổi dựa theo việc mở rộng kỹ năng biểu diễn. Đàn tỳ bà 4 dây dần được cải tiến với 18 và 21 phím, có thể diễn tấu trong âm vực 4 hoặc 5 quãng tám. Không dùng miếng gẩy và đánh đàn trực tiếp bằng ngón tay, người nghệ sĩ cũng thay đổi phương thức biểu diễn từ ôm đàn ngang sang ôm đàn thẳng đứng, tay trái tự do và nhờ đó tăng thêm sức thể hiện. Nhờ vậy mà đàn tỳ bà đạt tới sự hoàn mỹ với tư cách là một nhạc cụ độc tấu hoàn hảo.
Danh mục tin
Bài viết khác
- Nhạc cụ truyền thống của người Myanmar
- Nhạc cụ truyền thống của người Mông Cổ
- Nhạc cụ truyền thống của đất nước Tây Ban Nha
- Nhạc cụ của xứ sở Tonga
- Nhạc cụ của đất nước Kazakhstan
- Nhạc cụ của đất nước Jamaica
- Nhạc cụ dân gian của nước Anh
- Nhạc cụ truyền thống của người Ấn Độ
- Nhạc cụ của Thái Lan
- Nhạc cụ của người Argentina bản địa