Đàn Đáy ngày xưa tên là Vô đề cầm (nghĩa là đàn không có đáy), đàn Đáy còn có tên là Đới cầm. Đàn Đáy có dọc đàn (cần đàn) rất dài, có phím cao, có thể tháo ráp để di chuyển được vì cần đàn Đáy rời ra với thùng đàn, thùng đàn có 1 lỗ để cắm cần đàn vào trong thùng với một miếng tre để nêm chặt giữa cần đàn và thùng đàn. Đàn Đáy là một nhạc khí dây gảy độc đáo của dân tộc Việt, ở miền Bắc đàn Đáy xuất hiện từ đời nhà Lê (thế kỷ XV- XVIII). Đàn Đáy có 3 dây khác hẳn đàn Tam là mặt đàn làm bằng gỗ chứ không bịt da trăn, đàn Đáy có đủ khả năng của đàn Nguyệt, đàn Tam và đàn Tỳ Bà.
Để các bạn hiểu rõ hơn về cây đàn Đáy đặc biệt do người Việt ta sáng tạo, Tạ Thâm xin giới thiệu với các bạn về cây đàn Đáy cũng như các kỹ thuật chơi.
Đàn Đáy là một loại đàn đặc biệt do người Việt Nam sáng tạo, là loại nhạc khí chỉ có ở Việt Nam, trên thế giới không có một cây đàn nào giống cây đàn Đáy về hình dáng, cách lắp phím và cách đánh. Đàn Đáy có đặc tính dân tộc rõ rệt với đặc điểm độc đáo là: ở ngón nhấn ở mọi cây đàn khác âm thanh sẽ nghe cao lên trong lúc ở đàn Đáy thì với ngonsnhaans trong khi bấm lên dây, miết về phía bầu vang làm cho đoạn dây từ cung phím đến bộ phận mắc dây chùng xuống âm thanh sẽ nghe thấp đi cách đàn có tiếng lia, tiếng vẫy, tiếng mượn…
Hình thức cấu tạo:
1- Thùng đàn
2- Dọc đàn (cần đàn)
3- Dây đàn
4- Bộ phận lên dây
5- Phím gảy đàn
Thùng đàn: hình thang cân, đáy lớn ở trên rộng khoảng 24cm, đáy bé ở dưới rộng khoản 20cm, cạnh huyền khoảng 35cm. Mặt đàn làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc, thành đàn cao khoảng 9cm bằng gỗ cứng. Đáy đàn khoét một khoảng trống hình chữ nhật dài 20cm, rộng 9cm ở sau lung. Trên mặt đàn có gắn một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn.
Dọc đàn (cần đàn): rất dài, khoảng 1m18 bằng gỗ cứng, đặc biệt từ đầu đến 3/5 cần đàn không gắn phím, 2/5 phần còn lại gắn 8 phím và 2 phím gắn trên mặt đàn (có gắn đến 11 hoặc 12 phím). Các phím đều cao và bằng tre được gắn dựa theo thang âm 7 cung chia đều của dân tộc.
Dây đàn: có 3 dây đàn bằng tơ se, được lên cách nhau quãng 4 đúng, đàn Đáy có truyền thống koong bao giờ đánh âm dây buông
Ví dụ (132-1)
Bộ phận lên dây (cái thú): đầu đàn Đáy hình lá đề, có 3 trục gỗ để lên dây, ở phía cuối thân đàn có ngựa đàn để mắc dây. Bộ phận lên dây được cải tiến để dây không bị chùng xuống.
Phím gảy đàn: nghệ nhân gảy đàn bằng miếng gảy tre hoặc nhựa với những ngón gảy, hất, rung mổ…
Màu âm, tầm âm
Màu âm đàn Đáy hơi đục, ấm, có chiều sâu, thích hợp cho những tình cảm lắng. Tầm âm đàn Đáy có thể hơn hai quãng 8. Từ Rê đến Đô3 (từ d đến c3). Ví dụ: (132-2). Khoảng âm dưới: tiếng đàn ấm nhưng hơi mờ đục, khoảng âm giữa: tiếng đàn thanh thoát, khoảng âm cao: tiếng đàn trong sang gắn như đàn Nguyệt.
Tư thế biểu diễn:
Tư thế ngồi thấp: xếp chân trên chiếu
Kỹ thuật tay trái:
Đàn Đáy do dọc (cần đàn) rất dài, phím đàn rất cao nên kỹ thuật tay trái có những ngón độc đáo như ngón nhấn, ngón láy, ngón chùng, tiếng đàn ngón luyến nghe mềm mại, độc đáo.
Ngón nhấn: (nhấn bằng gân tay: nhấn và miết dây đàn cho chùng lại). Ngón nấn tạo cho hai âm nối liền nhau, nghe mềm mại.
Ngón chùng: dùng dầu ngón tay (thường là 2 ngón) trong khi bấm lên dây, miết về phía bầu vang làm cho đoạn dây từ cung phím ấy đến bộ phận mắc dây (cái thú) chùng lại, âm thanh trở nên thấp hơn âm thanh thường đánh, đây là ngón độc đáo chỉ riêng đàn Đáy mới có.
Ví dụ (135-5)
Ngón rung: là ngón tạo độ ngân dài của tiếng đàn và làm tiếng đàn mềm đi ở những âm cao, âm thanh đỡ khô khan, tình cảm hơn. Dây buông cũng rung được bằng cách nhấn nhẹ ở đoạn dây sát dưới trục dây.
Ngón mổ: tay trái ngón 1 bấm vò một cung phím, tay phải gảy dây, khi âm thanh vừa phát ra, ngón 2 hoặc 3 bấm mạnh vào cung phím khác (thường là liền bậc cao hoặc thấp) âm thanh từ cung phím nầy vang ;lên mà khong phải gảy đàn. Âm luyến nghe được do một phần của dây đàn còn chấn động, mộ phần do ngón tay mổ vào cung phím tạo them chấn động.
Ví dụ (137-4)
Đàn Đáy thường được sử dụng để đệm cho hát Ả Đào, cùng với phách (do người hát gõ), cùng với Trống Chầu (người thưởng thức đánh) và đôi khi đệm hát cho ngâm thơ. Gần đây có độc tấu đàn Đáy, đàn Đáy được đưa vào dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp là nhạc khí mang tính màu sắc.
Ở khu vực Đông Nam Á và trên khắp thế giới không có đàn nào có hình dáng, kích thước, cách đàn giống như đàn Đáy Việt Nam, đàn Đáy mang tính dân tộc rất rõ rệt.